Giới thiệu tới các em học trò cùng thầy cô giáo tổng hợp 4 bài văn mẫu lớp 10: Hãy viết văn bản nghị luận, phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ về nghệ thuật của một truyện kể (thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, tryện cười, truyện cổ tích) nhưng bạn thích thú. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện bài viết của mình tốt hơn.
Bài văn nghị luận phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của một truyển kể – Mẫu số 1
“Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng tự nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại ko bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.
Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại ko chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức thơ ngây và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.
Hành động đầu tiên lúc Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau lúc đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên ko ngừng của bản thân ông chứ ko phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.
Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới ko ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại nhưng các nhân vật thần thoại có được sức vạn thọ bền, vượt qua mọi thời kì để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.
Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.
Bài văn nghị luận phân tích một số nét rực rỡ của một truyện kể lớp 10 – Mẫu số 2
Nhắc tới những câu chuyện cổ tích của nước ta, ko thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích rực rỡ nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.
Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một tí ruộng vườn, tài sản, tuy ko khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ lúc người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em siêng năng làm lụng, săn sóc cho cây khế ra quả, chim quý tới ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn tới tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng tới ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Tình tiết tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng thâm thúy và thấm thía.
Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, siêng năng, chịu thương chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ tới đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, truyền tụng những con người chịu thương chịu khó, siêng năng, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những người nào đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này ko mới nhưng nó vẫn có trị giá ko riêng với toàn cầu cổ tích nhưng còn cả xã hội hiện thực hiện giờ.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài trị giá của chủ đề và bài học thâm thúy trong truyện Cây khế thì ko thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật rực rỡ đó đã tạo điều kiện cho chủ đề và bài học trong truyện trở thành thâm thúy, thấm thía hơn và thu hút độc giả hơn.
Yếu tố nghệ thuật trước hết cần kể tới đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất thân thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này thực chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý nhưng vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền tài mình. Nhân vật chim quý vào vai trò là nhân vật công dụng, thế lực siêu tự nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá thân thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu tượng cũng là một nét nổi trội cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ tới đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật xấu số, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính – tà khá thân thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.
Nét rực rỡ cuối cùng em muốn nói tới trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua tiếng nói, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách lạ mắt, riêng lẻ như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, tiếng nói, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “cuống quýt, mừng quýnh, vái lấy vái để “ lúc gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông đợi vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam tới mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, tiếng nói nhưng những nét tính cách nổi trội vẫn hiện lên tương đối đậm nét.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán tới những người có lối sống ham vật chất, khinh thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã liên kết hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, tiếng nói, hành động để nhân vật bộc lộ rõ phong cách của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.
Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, ko coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cuộc rủi ro mắn.
Nghị luận phân tích, nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ về nghệ thuật của một truyện – Mẫu số 3
Tham khảo văn mẫu cho đề bài: Hãy viết bài văn nghị luận phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của truyện Thần trụ trời được chúng tôi san sớt dưới đây:
Có nhẽ, những bí hiểm về tự nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã thông minh nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện “Thần Trụ trời”, ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc “Prô-mê-tê và nhân loại”, ta được trả lời về cách các vị thần tạo ra muôn vật và nhân loại. Ko giống hai tác phẩm trên, truyện “Đi san mặt đất” lại là những lí giải đơn giản về quá trình nhân loại chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn nhưng ko có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những rực rỡ trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện “Đi san mặt đất” có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá sơ khai, đơn giả về toàn cầu vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo toàn cầu sống quanh mình Lúc Trái Đất vẫn còn hoang vu thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời kì ko thể xác định, nhưng người thượng cổ chỉ biết là:
“Ngày xưa, từ rất xưa…
Người già ko nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa…
Người trẻ ko biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm”
Mốc thời kì ko cụ thể khiến chúng ta ko thể biết chuẩn xác đó là thời khắc nào. Khoảng thời kì đó xưa tới mức người già cũng ko thể nhớ nổi, người trẻ thì lại không thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước lúc đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ “bụng đá” “Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá”. Tuy nhiên, sống trong ko gian hoang vu, thiếu thốn lúc “Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô” nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo toàn cầu.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:
“Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài”
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất nhưng ko quản gì nhọc nhằn. Có sức tương trợ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc nhưng thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Ko thể trông cậy vào chúng, con người đã sức mạnh của nhau để cải tạo tự nhiên “Giống nào cũng ko đi/ Người gọi nhau làm lấy”. Truyện “Đi san mặt đất” của người Lô Lô ko chỉ thuần tuý là lời lí giải về sự bằng vận của mặt đất và bầu trời nhưng còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập toàn cầu. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng vận như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết sức mạnh của tập thể để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Ko chỉ lạ mắt ở chủ đề, truyện “Đi san mặt đất” còn có những rực rỡ ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã thông minh truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng giải pháp nhân hóa cùng với tiếng nói giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã tạo điều kiện cho chuyện trở thành sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng tiếng nói thân thiện, giản dị tạo điều kiện cho độc giả ở mọi thế hệ dễ dàng tiếp thu truyện.
“Đi san mặt đất” là một trong những truyện thần thoại rực rỡ của người Lô Lô. Truyện đã trình bày những lí hương nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về toàn cầu qua thể thơ năm chữ liên kết sử dụng các giải pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc thông minh những trị giá văn hóa dân gian.
Bài văn nghị luận, phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của một truyển kể lớp 10 – Mẫu số 4
Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện trình bày niềm khát khao chế ngự tự nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.
Đàu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng tới tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ”chúa vùng non cao”. Một người là ”vua vùng nước thẳm”. Vì đưa được sính nghi tới trước là ”voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín lông hồng” nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen tuông ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho tự nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu tượng cho nhân dân ta với ý thức kiên cường quật cường, sự mưu trí và quả cảm ko chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.
Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật rực rỡ để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và ý thức kết đoàn của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng tự nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính nghi là”voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín lông hồng”. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ ko phải đại dương. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những cụ thể kỳ ảo như ”Thủy tinh hô mưa, gọi gió.”, ”Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.” như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức tranh đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.
Câu chuyện Sơn Tinh , Thủy Tinh được khắc họa qua các cụ thể kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc tới với hình ảnh của người dân thời xưa đương đầu với sự tức giận từ tự nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình kết đoàn của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.
►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để download 4 bài văn nghị luận, phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của một truyện kể lựa chọn hay nhất hoàn toàn miễn phí!
Bạn thấy bài viết 4 bài văn nghị luận, phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của một truyện kể lựa chọn hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về 4 bài văn nghị luận, phân tích nhận định chủ đề và một số nét rực rỡ của một truyện kể lựa chọn hay nhất bên dưới để thcsbuihuunghialongxuyen.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THCS Bùi Hữu Nghĩa
Phân mục: Văn học
Nguồn: thcsbuihuunghialongxuyen.edu.vn
#bài #văn #nghị #luận #phân #tích #đánh #giá #chủ #đề #và #một #số #nét #đặc #sắc #của #một #truyện #kể #chọn #lọc #hay #nhất
Bạn thấy bài viết 4 bài văn nghị luận, phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc của một truyện kể chọn lọc hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về 4 bài văn nghị luận, phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc của một truyện kể chọn lọc hay nhất bên dưới để Trường THCS Bùi Hữu Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thcsbuihuunghialongxuyen.edu.vn của Trường THCS Bùi Hữu Nghĩa
Nhớ để nguồn: 4 bài văn nghị luận, phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc của một truyện kể chọn lọc hay nhất